Thứ Tư, 14 tháng 4, 2010

Những bài viết về Ngọc Hân

Tiếng khóc thành ngâm

Đỗ Lai Thúy

Tuyệt vời là khúc thương tâm

Biết bao tiếng khóc thành ngâm muôn đời

A.Musset

Vào thế kỷ XII, để yên bờ cơi phía nam hoặc muốn mở rộng đất đai, một người gái Việt Nam phải rời Thăng Long lấy vua Chiêm. Đó là Huyền Trân Công chúa. Cuộc hôn nhân chính trị này đă để lại nhiều đau khổ v́ tai tiếng:

Hai châu Ô Lư vuông ngàn dặm

Một gái hồng nhan khổ mấy mươi.

Đến cuối thế kỷ XVIII, lại một hôn nhân khác. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc lấy danh nghĩa "Phù Lê Diệt Trịnh", vua Hiển Tông bèn gả cho ông cô con gái yêu là Ngọc Hân Công chúa. Ngọc Hân là một cô gái thông minh, từ nhỏ đă được học thông kinh sử và làm thơ văn. Bà rời Thăng Long theo chồng vào Nam khi mới 16 tuổi. Trong Văn tế vua Quang Trung, bà nhắc lại sự kiện này khá rơ ràng:

Nhớ khi bến Nhị thuận buồm, hội bái vật chín châu lừng lẫy;

Vừa buổi cầu Ngân sơn nhịp, đoàn ỷ la đôi nước rơ ràng

Hôn cấu đă nên nghĩa cả

Quan san bao quản dặm trường.

Cuộc hôn nhân này đă mang lại hạnh phúc cho Ngọc Hân v́ đă gặp được người xứng đáng:

Mà nay áo vải cờ đào

Giúp dân dựng nước biết bao công tŕnh

Nhưng chỉ 6 năm sau, vua Quang Trung mất để lại cho bà hai con nhỏ. Khóc chồng và khóc cho số phận chính ḿnh, bà đă sáng tác hai áng văn bất hủ: Ai tư văn và Văn tế vua Quang Trung. Nội dung hai bản văn này như nhau, t́nh cảm của tác giả dồn nén vào đấy cũng như nhau, nhưng sức vang động trong ḷng người đọc th́ khác nhau.Ai tư văn là một tiếng vang lớn, đưa Ngọc Hân lên thành một tác giả nữ nổi tiếng của văn học Việt Nam. Ai tư văn là tiếng ḷng của một người phụ nữ vừa mới bị tước đoạt hạnh phúc. Tiếng kêu thương đó đă t́m được thể thơ song thất lục lục bát để trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Đây chính là một khúc ngâm như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu dạ lữ hoài ngâm... Một thể loại văn học mới xuất hiện để đáp ứng nhu cầu bày tỏ nội tâm của con người cá nhân và thức dậy trên cái bọc trăm trứng của cộng đồng. Lời than văn này gồm 41 khổ, 164 câu. Hai khổ đầu dường như chứa đựng nội dung của toàn bộ tác phẩm:

Gió hiu hắt, pḥng tiêu lạnh lẽo

Trước thềm lan, hoa héo don don!

Cầu tiên khói tỏa đỉnh non,

Xe rồng thăm thẳm, bóng loan dàu dàu

Nỗi lai lịch dễ hầu than thở

Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao?

Sầu sầu thảm thảm xiết bao

Sầu đầy giọt bể, thảm cao ngất trời.

Ba khổ thơ tiếp theo gợi lại cuộc sống hạnh phúc vợ chồng: hai khổ sau nữa là sự đột ngột ngă bệnh của chồng và cái chết! Tất cả các khổ c̣n lại đều nói về tâm trạng của tác giả: sự bàng hoàng và bơ vơ sau cái chết của Nguyễn Huệ, Ngọc Hân sống như người mộng du, hoang tưởng: khi th́ thấy chồng hiện về, khi th́ lớn tiếng trách trời sao lại để một người đức độ, công lao như vậy phải đoản thọ, khi th́ muốn thác theo chồng nhưng lại vướng nách hai con nhỏ, rồi nh́n đâu cũng nhớ nhung đau khổ cả:

Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn,

Cánh hải đường đă quện giọt sương

Trông chim càng dễ đoạn trường

Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.

Cảnh nào cũng bùi ngùi cảnh ấy

Tiệc vui muồng c̣n thấy chi đâu

Phút giây băi bể nương dâu

Cuộc đời là thế biết hầu nài sao?

Chữ t́nh nghĩa trời cao đất rộng

Nỗi đoạn trường c̣n sống c̣n đau...

Lê Ngọc Hân hẳn không có ư định làm một thi sĩ. Nhưng nỗi khổ đau, sự can đảm giăi bày nội tâm, việc chọn đúng thể loại ngâm khúc và tài năng sử dụng ngôn ngữ đă khiến bà trở thành một thi sĩ, một thi sĩ ngoài ư muốn nhưng thật tuyệt vời!


Danh nhân Lê Ngọc Hân


(Nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất)

PGS Chu Quang Trứ

Năm 1999 kỷ niệm 210 năm ngày chiến thắng Đống Đa (1789-1999), đồng thời kỷ niệm 200 năm ngày mất của Công chúa - Hoàng hậu Lê Ngọc Hân (1799-1999). Nhân dịp này, chúng ta thành kính dâng lên Bà nén tâm hương và cùng nhau ôn lại cuộc đời Bà với những hiểu biết chân xác dưới lớp bụi thời gian.

Đọc lại những tư liệu ít ỏi trong sử cũ và tham chiếu tộc phả họ Nguyễn Đ́nh ở Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội), chúng ta biết Lê Ngọc Hân là vợ yêu của vua Quang Trung, cũng là một danh nhân văn hóa của dân tộc. Ngọc Hân thuộc hàng công chúa cuối cùng của nhà Lê, đi vào lịch sử bằng cuộc t́nh duyên tuyệt đẹp với anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, đóng góp cho văn học Việt Nam bài văn khóc chồng Tế vua Quang Trung chân t́nh thống thiết; và đặc biệt là bài Ai Tư Văn tha thiết làm rung động ḷng người ở mọi thời đại. Nhắc đến sự nghiệp lừng lẫy của vua Quang Trung, không thể không nhắc đến bà. Và cũng chính bà, với hai tác phẩm văn học trên, đă sớm nhất đánh giá vua Quang Trung súc tích mà ngắn gọn, dễ nhớ nhất:

Mà nay áo vải cờ đào,

Giúp dân dựng nước biết bao công tŕnh

Mà nay lượng cả ơn sâu,

Móc mưa tưới khắp chín châu đượm nhuần.

Nhưng con người đầy tài hoa và nồng thắm t́nh cảm ấy phải chịu mệnh bạc, mà cả khi chết rồi vẫn phải chịu nhiều tai ương và oan trái. Cho đến nay, mặc dù đă được một số nhà nghiên cứu văn học và sử học minh oan, chứng minh bà mất từ năm 1799 tức trước khi triều Tây Sơn sụp đổ 3 năm, nhưng đây đó vẫn lan truyền thông tin rằng, bà chịu bị Gia Long ép lấy làm vợ; hoặc khi triều Tây Sơn đổ, bà phải lẩn trốn nhưng vẫn bị vua Gia Long truy nă và bắt về hành h́nh rùng rợn. Thực ra đó là những cách nghĩ bị suy diễn từ sự việc dễ gợi mối liên tưởng: Gia Long có ép Ngọc B́nh - em nuôi của bà và là vợ của vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn - lấy y. Gia Long có hành h́nh man rợ vua tôi Cảnh Thịnh và đối xử hèn hạ với di hài vua Quang Trung - Nguyễn Huệ và Thái Đức - Nguyễn Nhạc. Nhưng đối với bà Ngọc Hân, Gia Long và cả Minh Mạng vẫn "lờ đi", chỉ đến Thiệu Trị v́ có người tố giác mới theo "phép nước" mới có những hành động độc địa.

Vậy sự thật về Lê Ngọc Hân như thế nào? Từ những tư liệu văn học và sử học của thời Lê, thời Tây Sơn và thời Nguyễn, từ tộc phả họ Nguyễn Đ́nh và những truyền thuyết ở Ninh Hiệp - quê ngoại của bà, bức màn bí mật được vén lên dần:

Vùng Cố Pháp - Đông Ngàn - Từ Sơn (nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh), chỉ với những tên gọi nối nhau trong lịch sử đă gợi lên một vùng sông nước, rừng cây, g̣ đồi. Trên những g̣ đồi ấy, tổ tiên xa xưa đă tụ cư lập xóm dựng làng mà tên làng khi Hán Việt hóa để đi vào địa bạ của chính quyền đô hộ thời Bắc thuộc và của các nhà nước dân tộc thời độc lập đều có chữ Phù ở đằng trước để chỉ rơ g̣ nổi ở giữa đồng nước. Chỉ riêng phủ Từ Sơn (Bắc Ninh) đến thời Nguyễn vẫn c̣n các xă Phù Đổng, Phù Minh, Phù Lập (thượng và hạ), Phù Chẩn, Phù Ninh, Phù Lộc, Phù Lưu, Phù Khê, Phù Cảo, Phù Yên, Phù Lương, Phù Lăng... Giáo sư Trần Quốc Vượng đă phục nguyên âm Phù là Bù - Pù - G̣ thông đạt rơ ư tưởng người xưa. Đây là vùng đất thiêng, đă sản sinh ra Thành Gióng - anh hùng cứu nước đầu tiên đầy chất huyền thoại, và Lư Công Uẩn dựng nghiệp Đế mở ra kỷ nguyên Đại Việt, những người dân "dốt Đông Ngàn hơn ngoan thiên hạ"... Trong những người dân Đông Ngàn ấy, ở đầu thế kỷ thứ XVIII có cụ Nguyễn Đ́nh Giai ở Phù Ninh - tên nôm là làng Nành được triều đ́nh nhà Lê phong là Vũ huân tướng công thự Thần vũ tứ vệ quân vụ Tham đốc đặc tứ phong tặng chiêu vũ tướng quân, Đô đốc phủ Đô đốc Đồng Tri, Tuấn trung hầu. Cụ có 18 người con, gái trưởng là bà Nguyễn Thị Huyền. Bà được ông bác ruột - đồng thời cũng là cha nuôi đang làm tả thiếu giám (quan hoạn) ở ty Lễ giám tiến cử làm cung tần cho vua Lê Cảnh Hưng. Bài vị bà ở đền thờ tại Phù Ninh (nay là làng Ninh - Gia Lâm - Hà Nội) ghi rơ: "Cố Lê Chiêu Nghi Nguyễn Thị Húy Huyền, hiệu Thiện Trung sinh giờ Dậu ngày mồng 3 tháng 10 năm Quư Dậu (28-10-1753), mất giờ Hợi ngày mồng 1 tháng 8 năm Quư Mùi (1823), thọ 71 tuổi. Bà Huyền sinh công chúa Lê Ngọc Hân vào giờ Sửu ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (22-5-1770).

Năm 1786 Nguyễn huệ kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh, phù vua Lê, song trên thực tế đă thống nhất Đàng Trong và Đàng Ngoài, được vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân đang ở độ tuổi 16. ít ngày sau vua Lê Hiển Tông băng hà. Bà Nguyễn Thị Huyền góa bụa ở tuổi 33, sau một thời gian chịu tang chồng đă lui về quê lập dinh Thiết Lâm 100 gian ở xế cửa chùa Pháp Vân để tiện sang chùa lễ Phật.

Ngọc Hân vào Phú Xuân sống hạnh phúc bên chồng. Cuối năm 1788 được tin quân Thanh xâm lược đă chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế để chính danh tiến quân ra Bắc, phong Ngọc Hân làm Hoàng hậu ố tộc phả họ Nguyễn Đ́nh ghi là Trinh Nhất Vũ Hoàng hậu. Sau khi vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, vào đầu xuân Kỷ Dậu lại trở về Phú Xuân, và Ngọc hân đă sinh với vua được con gái đầu ḷng là công chúa Ngọc Bảo vào giờ Hợi ngày 20 tháng 4 năm Canh Tuất (4-6-1790), rồi hoàng tử Văn Đức vào giờ Măo ngày 14 tháng

Mà nay áo vải cờ đào,

Giúp dân dựng nước xiết bao công tŕình...

Lê Ngọc Hân là con vua Lê Hiển Tông và bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền. Bà có nhan sắc, thông minh, lại giỏi thơ văn.

Năm 1786, anh hùng "áo vải cờ đào" Nguyễn Huệ ra Bắc với chiêu bài "phù Lê diệt Trịnh". Ngọc Hân vâng mệnh vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ và theo ông về Thuận Hóa.

Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế trước khi ra Bắc lần thứ ba để diệt quân Thanh, lấy niên hiệu Quang Trung, phong Ngọc Hân làm Hữu Cung Hoàng Hậu.

Năm 1789, sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lại phong bà làm Bắc Cung Hoàng Hậu.

Năm 1792, Quang Trung Hoàng Đế đột ngột băng hà. Bà viết Tế Vua Quang Trung và Ai Tư Văn để bày tỏ nỗi đau khổ cùng cực cũng như nỗi tiếc thương vô hạn cho người chồng anh hùng vắn số.

Tác phẩm Ai Tư Văn chịu nhiều ảnh hưởng của bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm, nhưng cũng không hiếm những đoạn, những câu t́nh ư cảm động tha thiết, làm rung động ḷng người.

Có nhiều giả thuyết về cái chết của Ngọc Hân Hoàng Hậu, song thuyết đáng tin cậy nhất là bà mất vào năm 1799 từ bài văn tế bà do Phan Huy Ích viết, có chép trong Dụ Am Văn Tập.

Giêng năm Tân Hợi (27-2- 1791). Hạnh phúc đang nồng th́ năm 1792 vua Quang Trung băng đột ngột, Ngọc Hân ở tuổi 22 đă chịu cảnh góa bụa. Hai bài văn khóc chồng Tế vua Quang Trung và Ai tư văn đă nói lên nỗi đau đứt ruột xé ḷng của bà. Bà muốn chết theo chồng, nhưng trong đám tang vua Quang Trung thấy cảnh các con mới 1 - 2 tuổi ở trước linh sàng cha:

Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm

Đầu mũ mao, ḿnh tấm áo gai

U ơ ra trước hường đài

Tưởng quang cảnh ấy chua cay ḷng này

mà bà tạm sống để nuôi con, chờ con qua tuổi ấu thơ, chỉ sống thể xác thôi:

Vậy nên nấn ná đôi khi

H́nh tuy c̣n ở phách th́ đă theo

Bà đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân ố Huế) cạnh điện Đan Dương để thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4-12-1799) th́ mất, lúc ấy mới 29 tuổi. Khi đó Phan Huy ích đang là một trọng thần của Tây Sơn, đă soạn giúp năm bài văn cho vua Cảnh Thịnh, cho các công chúa, cho bà Nguyễn Thị Huyền, cho các tôn thất nhà Lê và cho họ ngoại ở làng Phù Ninh tế Ngọc Hân. Cả năm bài văn trên c̣n chép trong sách Dụ Am văn tập.

Tiếp theo, triều đ́nh Cảnh Thịnh lục đục và suy yếu, ngày càng bị tập đoàn Nguyễn ánh đe dọa. Hai con bag phải đổi sang họ Trần, nhưng rồi với sự sụp đổ của triều Tây Sơn, theo tộc phả họ Nguyễn Đ́nh, ngày 18 tháng 11 năm Tân Dậu (23-12-1801) hoàng tử Văn Đức mất khi mới 10 tuổi, rồi ngày 17 tháng 4 năm Nhâm Tuất (18-5-1802) công chúa Ngọc Bảo cũng mất khi mới 12 tuổi. Không rơ có phải như truyền thuyết là bị nhà Nguyễn giết hại trong khi trốn tránh? Nhưng cũng có thể chết bệnh v́ mất vào những thời điểm khác nhau, và không có tên trong danh sách vua tôi nhà Tây Sơn bị Gia Long hành h́nh. Hơn nữa bộ sách chính sử của nhà Nguyễn Đại Nam Thực lục nhân năm 1842 phá hủy đền thờ Ngọc Hân ở Phù Ninh có ghi: "Nguyên người xă ấy là Nguyễn Thị Huyền làm cung nhân của vua Lê Hiển Tông, có người con gái là Lê Ngọc Hân, sau gả cho ngụy (Nguyễn) Huệ, sinh được 1 trai và 1 gái, Ngọc Hân chết, con trai, con gái cũng chết non cả".

Phần "Biệt lục" của tộc phả Nguyễn Đ́inh c̣n ghi thêm: Bà Nguyễn Thị Huyền thương con gái và các cháu ngoại đều chết yểu nơi xa, năm 1804 thuê người vào Phú Xuân lấy hài cốt ba mẹ con Ngọc hân, ngày 24 tháng 3 năm Giáp Tư (3-5-1804) xuồng thuyền vượt biển, ngày 20 tháng 5 (28-6) về đến bến ái Mộ (Gia lâm, Hà Nội), ngày mồng 4 tháng sau (11-7-1804) đưa về bản dinh (tức dinh Thiết lâm của bà Nguyễn Thị Huyền), ngày mồng 9 (16-7-1804) đưa về làng, giờ Ngọ an táng hài cốt bà Ngọc hân, phụ chôn hoàng tử ở bên trái và công chúa ở bên phải. Nơi đó nay là Băi Cây Đại hay Băi Đầu Voi ở đầu làng Nành. (ảnh: Tượng chân dung của Bà Nguyễn Thị Huyền vợ Vua Lê, mẹ Công chúa Lê Ngọc Hân)

Sự việc này, bộ Đại Nam thực lục ghi tiếp ở năm 1842: "Khoảng năm đầu Gia Long, ngụy đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa phận xă Phù Ninh. Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích".

Bà Nguyễn Thị Huyền không có con trai, đă kư hậu 50 mẫu ruộng tốt với làng và chuyển dinh Thiết Lâm làm đền thờ. Nam 1823 bà Huyền mất, thọ 70 tuổi, dinh Thiết Lâm thờ bà và mẹ con Ngọc Hân. vẫn theo tộc phả họ Nguyễn Đ́nh và kết hợp truyền thuyết địa phương, th́ vào khoảng thời gian đời Minh Mạng sang đời Thiệu Trị, có người trong làng tố giác việc thờ cúng này, vua Thiệu Trị đă cho phá hủy đền thờ ở dinh Thiết Lâm, quật mộ ba mẹ con Ngọc Hân, đổ hài cốt xuống sông - nơi này sau dân lập đền ghềnh thờ bà; chánh tổng bị lột da nhồi trấu, tri phủ bị cách chức. Bộ sử Đại nam thực lục năm 1842 cũng xác nhận: "Tới đây, việc ấy phát giác, vua sai hủy đền thờ, đào bỏ hài cốt kẻ ngụy".

Từ năm 1842 dinh Thiết Lâm bị phá, nền dinh bỏ hoang thành đất công của làng, nhưng dân vẫn gọi là "Vườn Dinh" và dựng lên đây Một "Miếu cô hồn" kín đáo thờ Ngọc Hân. Măi gần trăm năm sau, đến năm 1937 họ Nguyễn Đ́nh đổi đất với làng lấy lại một phần nền dinh Thiết Lâm và lập lại đền thờ bà Nguyễn Thị Huyền cùng với Ngọc Hân. Đồng thời, tại băi cây Đại, cùng với việc sửa lại mộ bà Nguyễn Thị Huyền, dân làng cũng đắp nấm mộ tượng trưng của mẹ con Ngọc Hân, tương truyền là chính chỗ mà năm 1842 bị Thiệu Trị quật phá.

Như vậy, tại Phù Ninh ( nay là xă Ninh Hiệp - Gia Lâm Hà Nội) ngày trong khi Gia Long vừa lật đổ triều Tây Sơn, hành quyết man rợ vua tôi Cảnh Thịnh, ra sức truy lùng hành tích Tây Sơn, th́ nhân dân đă đón nhận hài cốt mẹ con Ngọc Hân về, xây lăng mộ, dựng đền thờ. (ảnh:Mộ Bà Huyền)

Từ năm 1842 không được thờ chính thức th́ nhân dân bí mật thờ mẹ con Ngọc Hân dưới dạng "cô hồn". Và từ 1937 Ngọc Hân cùng với mẹ và hai con lại được thờ trong một nhà thờ nhánh của họ Nguyễn Đ́nh. Trước sau vẫn ở trên một khu đất cũ là nền dinh Thiết Lâm sư của nhà Nguyễn Thị Huyền. Cùng với việc thờ cúng này, nhân dân địa phương c̣n giữ trong chùa làng chiếc trống đồng lớn (cao 35 cm, rộng 55 cm) khắc rơ niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ 8 (1801) với nhiều hoa văn đẹp để rồi giao cho Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam quản lư và trưng bày cho mọi người đều biết.

Mười năm trước, trong khuôn khổ chuẩn bị kỷ niệm 200 năm chiến thắng Đống Đa, cuối năm 1988, chính quyền xă Ninh Hiệp đă tổ chức cuộc hội thảo khoa học về danh nhân Lê Ngọc Hân nhân ngày giỗ bà và làm lễ dâng hương trang trọng. Nhưng cho đến nay di tích về bà vẫn c̣n bị thả nổi!

Cuộc đời Lê Ngọc Hân cả khi sống lẫn khi chết đă chịu nhiều cay đắng, nhưng bà thực sự là một nhân vật lịch sử ố một nữ danh nhân văn hóa đầy tài hoa, từ khi gắn cuộc đời với vua Quang Trung đă trở thành một tài năng sáng tạo lớn của đất nước. Sau kỷ niệm 210 năm chiến thắng Đống Đa của vua Quang Trung, hy vọng vào dịp giỗ Ngọc Hân lần thứ 200 này (cuối năm 1999) đền thờ và nấm mộ (dù là tượng trưng) của Bà sẽ chính thức là di sản văn hóa quốc gia.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét